(Khoa học Kỹ thuật Truyền hình - Số 03/2011) Mặc  dù nhiều hệ thống HD đã được xây dựng, việc thành công hay không vẫn  còn tùy thuộc nhiều yếu tố. Trong 4-5 năm qua, có một sự gia tăng rất  lớn trong các dịch vụ HD, số kênh tiếp tục tăng nhanh, đặc biệt là đối  với các Đài Truyền hình không có trở ngại về băng thông và có các kế  hoạch thương mại đột phá. Có một nhu cầu cụ thể về HD từ phía người tiêu  dùng, đó là mong đợi hình ảnh và âm thanh chất lượng cao trên các thiết  bị nghe nhìn của mình, cũng như là sự lựa chọn rộng rãi của các chương  trình có sẵn theo yêu cầu.
Các Đài Truyền hình cần phải đầu tư để  duy trì, gia tăng lượng khán giả và doanh thu của họ, cũng như tận dụng  lợi thế từ những cơ hội mới mà HD tạo ra. Thông thường, các dịch vụ SD  hiện có, tài liệu lưu trữ và các thiết bị cần phải được đưa vào trong kế  hoạch thiết kế các hệ thống HD mới.
Xu  hướng của việc thiết kế hệ thống đang bắt đầu chuyển từ hệ thống  1.5Gb/s (1080i) sang hệ thống 3Gb/s (1080p) kể từ khi các Đài Truyền  hình đang hướng tới các hệ thống tương thích với 3Gb/s. Khi thiết bị  không tương thích với chuẩn 3Gb/s, thông thường, Đài Truyền hình thực  hiện một lộ trình để đạt 3Gb/s. 
Khi tốc độ dữ liệu SDI tăng lên  đạt đến các định dạng 1080i và 1080p, thì những hạn chế về vật lý của cơ  sở hạ tầng (cáp đồng) đã ảnh hưởng đến thiết kế của các tòa nhà, bao  gồm đường đi và độ dài khay cáp. Do vậy, việc liên lạc với các đối tác  xây dựng ở giai đoạn ban đầu rất cần thiết để giúp để xác định các ứng  dụng thích hợp và tránh những bất ngờ trong giai đoạn xây dựng.
Tìm hiểu quy trình làm việc.
Trong  thiết kế kỹ thuật chi tiết, việc xác định và hiểu biết các công việc  cần thiết là một yếu tố quan trọng phải được thiết lập ngay từ đầu. Việc  phân bổ thời gian và nguồn lực cho các workshop được yêu cầu để xác  định các quy trình công việc thường có thể bị bỏ qua, dẫn đến nhiều giai  đoạn được vội vã thông qua. Việc xác định các yêu cầu ở giai đoạn đầu  sẽ đảm bảo các nhà cung cấp cung cấp các sản phẩm phù hợp nhất. Một hệ  thống tích hợp chuyên nghiệp phải được quản lý nghiêm ngặt về cam kết  rằng nhà cung cấp có thể đáp ứng yêu cầu. Không ai muốn trở thành một  thành phần của một dự án khoa học với một điểm chết (deadline).
Khi  tiến đến các cơ sở hạ tầng HD, các Đài Truyền hình thường tìm cách để  giảm các chi phí hoạt động và tự động hóa nhiều giai đoạn của môi trường  sản xuất. Tự động hóa không chỉ là bảo vệ hệ thống truyền dẫn phát  sóng, mà còn ứng dụng trong các studio HD. Trong các dự án về studio gần  đây, người ta thường quan tâm đến sự linh hoạt trong tự động hóa chỉ  thông qua việc “ấn 1 nút nhấn” để tự động hóa dòng công việc. Ví dụ là  sự chuyển đổi phòng điều khiển sản xuất. Điều này cho phép, trong vòng  vài giây, các phòng điều khiển khác nhau được chuyển sang kiểm soát các  studio khác nhau. Một ví dụ khác là quản lý việc phân bổ các nguồn lực  phát sóng trong phòng tin tức. Phương tiện kỹ thuật sẵn có trong bất kỳ  hệ thống tổng thể có thể được tự động phân bổ, cấu hình và thiết lập bởi  một hệ thống tự động hóa, dẫn đến sự linh hoạt trong điều hành.
Các thách thức về âm thanh.
Nếu  yêu cầu về băng thông cho HD video hiện đang là một thách thức, thì vấn  đề về âm thanh cũng là một thách thức không kém, cho dù tốc độ dữ liệu  của nó thấp hơn. Âm thanh đa kênh có thiết kế hệ thống riêng của nó, với  định pha (phasing) và việc xử lý (processing) đều đang là chìa khóa để  xử lý đa ngôn ngữ, mô tả âm thanh và các bàn trộn âm thanh thay thế.
Trong  một chừng mực nào đó, cơ sở hạ tầng âm thanh đã trở nên đơn giản hơn,  một phần tùy thuộc vào việc truyền âm thanh nhúng (embeddeb audio) và  kết nối chính MADI (MADI trunking) (từ console đến các giao tiếp như  TalkBack hoặc hệ thống liên lạc nội bộ (intercom), từ router đến console  vv). AES audio được dùng cho kết nối cục bộ trong phòng điều khiển và  phòng thiết bị. Tuy nhiên, âm thanh analog vẫn được dùng giữa các  microphone và bộ khuếch đại, console và loa, và nó đóng vai trò như là  một phương thức của kết nối I/O của hệ thống liên lạc nội bộ và và các  thành phần RF. Âm thanh tương tự có thể được kết nối bằng kỹ thuật số  tùy thuộc vào model của sản phẩm được sử dụng.
Mật độ các khung  dây, jackfields và các bảng đầu cuối cũng giảm thiểu rất nhiều, nhưng  công nghệ và các quy trình được yêu cầu để phân phối âm thanh và các kỹ  năng liên quan đến sản xuất đã tăng lên theo cấp số nhân, mặc dù chi phí  huấn luyện nhân sự cũng giảm xuống rõ rệt.
Cáp sợi cơ sở hạ tầng  (fiber infrastructre cabling) không cần thiết trong các hệ thống âm  thanh như đối với hệ thống video vì băng thông tương đối thấp. Nhiều sản  phẩm cung cấp các giải pháp thay thế kết nối bằng cáp đồng (cáp đồng  trục (coax) dùng cho MADI, Cat 5/6 dùng cho các mạng âm thanh) đối với  chiều dài ngắn hơn, còn với cáp quang thì đây là một lựa chọn cho các  ứng dụng có độ dài dài hơn.
Phòng điều khiển âm thanh thường được  trang bị với quy mô lớn bàn trộn tín hiệu số hóa và hệ thống loa Dolby  5.1, nay đã trở thành tiêu chuẩn thông thường. Hãy lưu ý về vị trí của  loa âm thanh vòm, theo khuyến nghị ITU, thường bị ảnh hưởng bởi các giới  hạn vật lý của môi trường và vị trí của thiết bị giám sát tầm nhìn. Đối  với hệ thống tích hợp, việc sử dụng các hệ thống giàn xây dựng trần nhà  nhằm tối ưu hóa vị trí của các loa âm thanh vòm cho các vị trí kênh  trung tâm.
Mạng máy tính.
Một  khía cạnh quan trọng của bất kỳ hệ thống HD là thiết kế của cơ sở hạ  tầng mạng IT và LAN. Việc tăng tốc độ dữ liệu HD trong một hệ thống làm  việc dựa trên tập tin được khuyến khích tích hợp trong mạng IT trong nhà  (in-house). Thời gian tiêu tốn cho thiết kế mạng và thiết kế lưu trữ là  hoàn toàn phù hợp, nhất là khi nó làm cho giảm đáng kể lượng thời gian  thực hiện trong tìm lỗi phức tạp. Các loại lỗi đôi khi có thể không dự  đoán được do thiết kế và cấu hình mạng và lưu trữ không chính xác. Điều  này có thể làm giảm niềm tin của người sử dụng ngay thời gian đầu trong  điều hành một hệ thống mới.
Tất cả các chuyển động tập tin media  đều thực thi qua mạng, từ ingest đến truyền tải, và duy trì nhiều quy  trình công việc với nhau. Việc triển khai của hệ thống đa kênh HD có sử  dụng các định dạng như DVC-PRO100 và IMX-50, với các quy trình công việc  hỗ trợ, thì yêu cầu cơ sở hạ tầng mạng phải đạt mức thông lượng cao,  tính sẵn có cao và độ trễ thấp.
Các phương pháp thiết kế mạng và  mạng LAN truyền thống đều bị hạn chế sử dụng cho việc triển khai mạng  như thế. Yêu cầu cho một mạng hỗ trợ cơ sở hạ tầng HD đa kênh như vậy có  thể được coi là tương tự như của cơ sở hạ tầng của nhà cung cấp dịch vụ  cỡ vừa. Các công nghệ 10GigE là thường dùng đối với các hệ thống mạng  lõi (core network) như vậy, với tốc độ quang của mạng WAN lên đến 40Gb/s  được triển khai chia trên nhiều địa điểm. Các yêu cầu cao như vậy là  cần thiết để hỗ trợ các quy trình công việc phức tạp của các kênh, nơi  mà việc chuyển tập tin qua mạng phải thực thi nhiều lần với tốc độ thời  gian thực.
Tính sẵn có của các mạng như vậy cũng phải tương đương  với phần còn lại của hệ thống. Nền tảng sẵn có cao, với các tính năng  như các bộ điều khiển dự phòng và nguồn cung cấp dự phòng được sử dụng  xuyên suốt, và các giao thức định tuyến và  giao thức mạng LAN được điều  chỉnh để hỗ trợ cực kỳ nhanh chóng trong trường hợp có lỗi liên kết hay  lỗi thiết bị.
Hệ thống an ninh.
Các  mạng của các hệ thống như vậy không bị cô lập hoàn toàn với thế giới  bên ngoài, và các yêu cầu về an ninh phải được đưa vào và phải được tích  hợp hoàn toàn. Khi việc nhập liệu (dữ liệu file-based) hệ thống càng  trở nên phổ biến hơn, và các yêu cầu đối với tính năng tăng nội dung  người dùng tạo ra, thì công cụ dò tìm và kiểm tra giao thông mạng phải  được yêu cầu để bảo vệ hệ thống từ các phần mềm độc hại, hay các virus  máy tính có thể được chứa trong dữ liệu media như vậy.
Tương tự  như vậy, mức độ an ninh mạng là cần thiết để ngăn chặn nội dung và media  bị đánh cắp. Các giải pháp này được đưa cùng ra với yêu cầu về sự linh  hoạt trong sản xuất HD hiện đại để đáp ứng về lưu thông thông, tính bảo  mật người dùng…
Các quyết định khác cần phải được xem xét khi xây dựng một hệ thống HD bao gồm:
-     Đầu ra là SD hay HD? Lập kế hoạch cẩn thận nếu được, đặc biệt trong  trường hợp yêu cầu phát simulcast SD/HD. Một số kênh có thể thích hợp  cho thực hiện downconversioni , nhưng nhiều kênh sẽ yêu cầu song song full SD/HD, mà điều này chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng lớn về chi phí.
-     Các giải pháp đối với tài nguyên SD là gì? Bị ngăn cản hay cho phép  sau khi thực hiện upconversion? Bao nhiêu khách hàng muốn chi tiêu cho  upconversionii, cho rằng tiền tương đương với chất lượng? Tài  nguyên SD được chuyển đổi trong lúc ingest khi phát sóng (playout)? Nếu  tất cả tài nguyên được upconverted khi ingest, điều này sẽ dẫn đến lưu  trữ và thời gian truyền lớn hơn. Tuy nhiên, chất lượng nào là đáp ứng  với thị trường mục tiêu?
-    Codec nào được sử dụng? Điều này có  thể là một sự lựa chọn phức tạp dựa trên các yêu cầu về lưu trữ, yêu  cầu về hiệu chỉnh, số lượng các kênh âm thanh và khả năng các hệ thống.  Tốt hơn là tránh dẫn đến việc chuyển mã, khi đó nó đảm bảo hệ thống được  xuyên suốt và giảm bớt các vấn đề phát sinh trong quy trình làm việc.
-    Codec được chọn có tương thích để hiệu chỉnh hay nó có thể được xử lý thông qua một chương trình nhúng (plug-in)?
-     Có bao nhiêu kênh âm thanh cần phải được hỗ trợ? Số lượng các kênh âm  thanh yêu cầu cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét. Việc lựa chọn  định dạng phụ đề và vị trí được chèn ở đâu trong chuỗi dữ liệu cũng cần  phải quan tâm.
Hầu hết các phát triển công nghệ, bao gồm cả HD, mang nhiều ưu điểm cho người dùng cuối. Mặc dù vậy, theo quan điểm nhìn từ thiết kế hệ thống, thì các thách thức cũng tăng lên. Mặc dù có những lợi thế cho Đài Truyền hình và người dùng cuối, việc thiết kế của một hệ thống HD thực sự không dành cho kẻ nhút nhát.