Tin tức

Tin thị trường

Doanh thu Video trực tuyến, Internet TV đạt $35 tỷ đô la vào năm 2018

Video trực tuyến cung cấp trên mạng băng rộng cố định sẽ "trên đà lớn cất cánh" với doanh thu trên 35 tỷ đô la mỹ vào năm 2018, tăng gần 120% so với năm 2013, một nghiên cứu mới cho biết.

Sự gia tăng đang được thúc đẩy bởi phổ dụng của băng thông rộng, công nghệ mới và các dịch vụ như Netflix và Hulu Plus sẽ đẩy nhanh việc phát triển trên toàn thế giới, theo báo cáo , “Online TV and Video Forecasts,” của  Digital TV Research.

Báo cáo dự báo vào năm 2018, 520 triệu gia đình tại 40 quốc gia sẽ xem truyền hình trực tuyến và video (cả trả tiền cho quảng cáo), tăng từ 182 triệu trong năm 2010. Doanh thu dự kiến đạt 35 tỷ đô la vào năm 2018, tăng từ 3.8 tỷ đô la năm 2010 và dự kiến 15.94 tỷ đô la trong năm 2013.

TV và video quảng cáo trực tuyến đã trở thành nguồn thu chính cho OTT, báo cáo chỉ ra, với doanh thu 7.4 tỷ đo la trong năm 2013, tăng từ 2,4 tỷ USD năm 2010, tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 45%.

Rằng sự tăng trưởng nhanh chóng trong chi phí quảng cáo sẽ chậm lại một chút, nhưng tốc độ CAGR là hơn 17%, đạt tổng doanh thu 16.4 tỷ đô la vào năm 2018. Tuy nhiên, phần quảng cáo từ doanh thu OTT sẽ giảm từ 60,6% năm 2010 xuống 46,9% vào năm 2018.

Dịch vụ Subscription services sẽ phát triển nhanh nhất cho dịch vụ OTT trả tiền của Netflix, Amazon, Hulu Plus.

Báo cáo cũng dự đoán truyền hình trực tuyến và video subscription revenues  (SVOD) sẽ đạt 6 tỷ USD trong năm 2013, từ 1 tỷ USD vào năm 2010 và tăng hơn gấp đôi đạt 13 tỷ USD vào năm 2018.

Sự hấp dẫn của dịch vụ thuê bao của khán giả toàn cầu sẽ thúc đẩy tăng trưởng, báo cáo cho biết, với số lượng hộ gia đình trả phí gói SVOD sẽ tăng từ 21,9 triệu hộ năm 2010 lên 67.8 triệu hộ vào cuối năm 2013 và lên 160 triệu hộ trong năm 2018.

"Nhiều người nghĩ rằng Netflix đã khá chậm chạp trong việc chiếm lĩnh thị trường quốc tế - với lí do không làm mất cân đối tài chính do đầu tư", Simon Murray, chuyên gia phân tích tại Digital TV cho biết. "Netflix đã chiếm thị trường lớn tại nơi nó ra mắt - trong Vương quốc Anh / Ailen Scandinavia. Hoa Kỳ là thị trường lớn phía trước nhưng khoảng cách sẽ rút ngắn, đặc biệt với các quốc gia Tây Âu. "

Việt Nam phấn đấu sản lượng khai thác 340.000 Barrel dầu trong 'Vài năm'

Việt Nam có thể duy trì sản xuất dầu khoảng 340.000 thùng mỗi ngày "trong vài năm tới", theo một quan chức của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cho biết.

Sản xuất dầu Việt Nam tăng 10 phần trăm năm ngoái lên 348.000 thùng mỗi ngày, mức cao nhất từ năm 2006 đến giờ, theo số liệu từ BP PLC. Việt Nam trữ lượng dầu lớn thứ hai ở Đông Á, với 4,4 tỷ thùng vượt qua Trung Quốc, dựa trên ước tính của BP.

Khoảng 40 phần trăm sản lượng của Việt Nam đến từ hoạt động của liên doanh Vietsovpetro, ông Lê Ngọc Sơn, Tổng giám đốc khai thác dầu và khí đốt thuộc PetroVietnam cho biết. Liên doanh Vietsovpetro giữa PetroVietnam và Zarubezhneft của Nga hoạt động tại mỏ lâu đời nhất của Việt Nam, được gọi là Bạch Hổ, từ năm 1986.

"Duy trì sản xuất ở mức ổn định, đó là nhiệm vụ quan trọng, mục tiêu chính của chúng tôi", ông Sơn cho biết tại một hội nghị ngành công nghiệp ngày hôm qua tại thành phố Hồ Chí Minh. "Đầu tiên, chúng ta cần phải đưa các lĩnh vực mới vào sản xuất, để thêm sản phẩm mới. Thứ hai, chúng ta cần phải tìm cách để nâng cao hệ số thu hồi bằng cách khoan giếng bổ sung, cố gắng tìm nguồn dầu mới từ các giếng cũ. "

Soco International Plc (SIA), công ty trụ sở tại London điều hành mỏ Tê Giác Trắng trung bình khai thác 45.132 thùng dầu mỗi ngày trong 10 tháng đầu năm nay, cho biết trong tháng Mười một giếng thăm dò khoan hoàn hảo của Việt Nam đạt khoảng 27.600 thùng dầu mỗi ngày.

Giám đốc điều hành Soco Ed mô tả sự việc trên sàn chứng khoán "một trong những giếng dầu đơn lẻ sung mãn nhất được thử nghiệm tại Việt Nam." Việc này làm tăng sản lượng Tê Giác Trắng lên 1 tỷ thùng dầu".

Sản lượng dầu của Việt Nam đến từ các mỏ tại Biển Đông phía nam của đất nước. Các khai thác mới có xu hướng nhỏ hơn và trong hồ chứa với điều kiện địa chất địa vật lý phức tạp và ngày càng ra vùng biển xa và đầy thử thách, theo trình bày của Ông Sơn tại hội nghị.

"Không ai biết chắc được sản phẩm sẽ đến nhiều từ khí hay dầu hơn" David Thompson, phó chủ tịch cấp cao tại Singapore công ty tư vấn Wood Mackenzie cho biết, trong một cuộc phỏng vấn tại hội nghị.

"Đối với Việt Nam, vùng nước sâu sẽ là tiềm năng chính trong tương lai", Thompson nói. "Nếu muốn thúc đẩy sản xuất, chúng ta cần thăm dò nhiều hơn vùng nước sâu."

Thị trường mô phỏng chăm sóc sức khỏe / y tế sẽ đạt 1,9 tỷ USD vào năm 2017

  Báo cáo  "Thị trường mô phỏng chăm sóc sức khỏe / y tế theo dòng sản phẩm (mô phỏng người bệnh, mô phỏng phẫu thuật, mô phỏng hình ảnh, công tác huấn luyện), Công nghệ (Haptic, thực tế ảo), Người dùng (Học viện, Bệnh viện, quân sự) & Dịch vụ - Xu hướng toàn cầu dự báo đến năm 2017 ", phân tích và nghiên cứu những động lực chính của thị trường, hạn chế, và cơ hội ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á.

  Báo cáo nghiên cứu thị trường mô phỏng chăm sóc sức khỏe / y tế toàn cầu, với dự báo đến năm 2017.
  Mô phỏng chăm sóc sức khỏe / y tế đã phát triển rộng rãi trong vài năm qua, chủ yếu là do những tiến bộ khác nhau trong công nghệ . Trọng tâm ngày càng tăng về đào tạo các học viên y tế, chi phí chăm sóc sức khỏe tăng lên, tập trung đảm bảo an toàn cho bệnh nhân, khả năng tài chính đã góp phần làm tăng sức mua của các học viện, do đó thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường.

  Các công ty chính cung cấp sản phẩm là:

  • Laerdal Medical (Norway)
  • CAE Healthcare (Canada)
  • Simulaids (U.S.)
  • Gaumard (U.S.)
  • Kyoto Kagako (Japan)
  • Limbs and Things (U.K.)
  • Education Management Solutions (U.S.)
  • Mentice AB (Sweden)

Thị trường mô phỏng chăm sóc sức khỏe / y tế chủ yếu bao gồm các sản phẩm mô phỏng và các dịch vụ được sử dụng để đào tạo sinh viên và các học viên y tế. Các công ty tập trung đầu tư mô phỏng trung thực cao hình nộm bệnh nhân, được dự báo sẽ tăng trưởng với tốc độ CAGR cao từ 2012-2017. Các viện nghiên cứu, bệnh viện, quân sự là khách hàng của sản phẩm mô phỏng y tế. Các viện nghiên cứu chiếm thị phần lớn nhất trong năm 2012 chủ yếu là do tăng đầu tư đào tạo sinh viên y khoa khả năng tài chính của chính phủ.

Bắc Mỹ là thị trường chính cho mô phỏng y tế, tiếp theo là châu Âu. Điều này là do chủ yếu là sự hiện diện của các hãng lớn tại khu vực này và khả năng tài chính. Tăng trưởng trong thị trường châu Á, đặc biệt là Trung Quốc Ấn Độ, sẽ rất phát triển do nhận thức ngày càng tăng của công nghệ tiên tiến.

Tải toàn văn báo cáo tại đây

http://marketsandmarkets.us7.list-manage1.com/track/click?u=580d152b50b736d2f1ff6cb45&id=f36c6cb287&e=2e4c199e6d