...
Ắc quy lithium sắt phosphate (lithium iron phosphate - LiFePO4), còn gọi là ắc quy (LFP - lithium ferrophosphate), là loại ắc quy có thể xạc lại thuộc dòng ắc quy lithiumion, trong đó cực sử dụng vật liệu LiFePO4. Ắc quy LiFePO4 có mật độ năng lượng thấp cao, thời gian hoạt động lâu và an toàn.
Lịch sử ra đời
LiFePO4 là một khoáng chất tự nhiên thuộc họ olivin (triphylite). Năm 1996 nhóm nghiên cứu John B. Goodenough tại Đại học Texas sử dụng lần đầu tiên chất này làm vật liệu catốt. Do chi phí thấp, không độc hại môi trường (non-toxicity), độ sẵn có của nguyên liệu sắt trong tự nhiên, độ ổn định nhiệt độ, độ an toàn, tính chất hóa điện cùng khả năng lưu điện (170 mA · h / g, hoặc 610 C / g) nên ắc quy đã được một số thị trường như quân sự, giao thông ... nhanh chóng chấp nhận.
Rào cản chủ yếu cho việc thương mại hóa sản phẩm là khả năng dẫn điện thấp. Điều này khắc phục bằng cách giảm kích thước hạt, phủ hạt LiFePO4 với chất dẫn điện như các bon. Phương pháp này được phát triển bởi Michel Armand và đồng nghiệp. Một phương pháp khác thực hiện bởi nhóm Yet Ming ghép LPF với các ion dương của các vật liệu nhôm, niobi, và zirconi. Ắc quy được sản xuất chủ yếu và sử dụng trong công nghiệp tại các hãng DeWalt Decker, Karma Fisker, Daimler AG, Cessna và BAE Systems.
MIT đã giới thiệu công nghệ phủ mới cho phép các ion di chuyển dễ dàng hơn trong ắc quy. "Beltway Battery" sử dụng một công nghệ cho phép các ion lithium ra vào các điện cực với tốc độ lớn để có thể xạc đầy ắc quy trong một phút. Họ phát hiện ra rằng bằng cách phủ hạt lithium iron phosphate trong chất pyrophosphate lithium thủy tinh, các ion bỏ qua các kênh và di chuyển nhanh hơn so với các loại ắc quy khác. Khả năng nạp và phóng điện của ắc quy phụ thuộc vào tốc độ dịch chuyển các ion này. Công nghệ như vậy làm giảm trọng lượng và kích thước của ắc quy. Một tế bào ắc quy mẫu này có thể nạp đầy từ 10-20 giây, so với 6 phút với các tế bào ắc quy tiêu chuẩn.